Thế nào là tu tâm và tu tướng?

Muốn sống thảnh thơi an lạc và hạnh phúc không khổ mình khổ người thì ngoài việc tu phước, người Phật tử còn phài biết tu tâm dưỡng tánh để loại trừ cái gốc vô minh. Do đó tu tâm còn gọi là tu tuệ hay tu tuệ.

Sống ở đời người ta hay xem trọng sắc diện, dáng vẻ bề ngoài. Thói thường người phụ nữ xinh đẹp, ăn mặc sang trọng, hay một nam tử tốt tướng "đẹp trai" diện đúng mốt thời trang... vẫn thu hút được sự chú ý của người xung quanh; ngược lại người có nét mặt buồn rầu u tối, ăn mặc xốc xếch... đi đến đâu cũng thường hay chịu thiệt thòi, dù không bị dè bỉu khinh thường ra mặt nhưng họ không được mọi người thực tâm ưu ái dành cho một chỗ đứng trang trọng, ngay trong giây phút gặp gỡ đầu tiên.

Nói đến tướng là nói đến hình dáng tổng thể bề ngoài, bề mặt của hiện tượng thế gian trong đó có con người. Ngày xưa ông bà thường nói tư tưởng sẽ làm thay đổi tướng mạo của con người. Ngày nay các nhà Khoa Học cũng có quan niệm như thế, họ cũng đồng ý tướng mạo con người có thể thay đổi. Khi một em bé mới lọt lòng Mẹ, nhiều bé rất kháu khỉnh, lúc lớn lên một chút trông các em rất xinh xắn ưa nhìn, nhưng khi trưởng thành mặt mũi hình dáng thay đổi không còn đẹp nữa.

Sự thay đổi tướng mạo có thể do vì người đó thay đổi tánh tình, tâm địa không còn trong sáng ngây thơ thay vào đó là lòng ganh tỵ thù hằn với người khác, hoặc do hoàn cảnh sinh sống của người đó không được thoải mái khiến họ lúc nào cũng ưu tư phiền não, hay do ảnh hưởng của nghề nghiệp...mà đường nét trên khuôn mặt, phong thái, cử chỉ, tướng trạng của họ cũng thay đổi khác khi còn bé một trời một vực. Chúng ta có thể nhìn thấy một người làm nghề đồ tể chuyên giết heo, bò, gà vịt mỗi ngày, nét mặt ánh mắt của họ rất hung dữ. Còn những cô y tá có tính nhẫn nại thương người, khi săn sóc bệnh nhân thì lời nói của họ dịu dàng, cử chỉ dễ mến.

Người mang tâm địa độc ác dù may mắn có tướng tá cao ráo khuôn mặt đẹp đẽ, nhưng vẫn không được người đời mến chuộng. Đa phần người ta tìm cách xa lánh những loại người này vì trên vẽ mặt của người ấy luôn để lộ những nét hung dữ khiến cho những người xung quanh nhìn vào cảm nhận ngay có tấm màn ngăn cách, không muốn đến gần vì e sợ sẽ đụng chạm phiền phức. Tại sao lại như thế? Lý do dễ hiểu là lúc nào đầu óc của người đó cũng căng thẳng vì đầy ắp những suy nghĩ, những mưu kế có lợi riêng cho mình, bất cần sự đau khổ của người khác. 

Tâm lý thù hằn oán giận thường xuyên tác động đến hệ thống các tuyến nội tiết, tiết ra những chất sinh hoá học như Norepinephrine: là chất gây căng thẳng, phấn khích quá độ, nổi giận, nỗ lực, tập trung, chú ý, vận sức lên gân, kéo dài sở thích... thuộc về Tâm động. Epinephrine: là chất gây chán nãn, thối chí, ngã lòng, buồn tủi, than thântrách phận, bất mãn, lo âu, sầu bi, nghi ngờ, trầm cảm, chán sống... thuộc về Tâm tiêu cực.

Hai chất Nore và Epi hợp lại làm tăng nhịp tim, tăng áp huyết, tăng đường máu, tăng máu mỡ, đẩy chất Glucagon từ trong gan vào máu gây nên bệnh tiểu đường. Nore và Epi nhiều sẽ khiến Cortisol tiết ra chạy lên não, bó chặt tế bào não làm mất ký ức. Khi những chất này tràn vào máu sẽ khiến cho sắc mặt của người đó thường xám xịt, nhăn nhó, căng thẳng, xấu xí. Lâu ngày sinh những căn bệnh tâm thể kể trên, khiến người đó thường bực bội, khó chịu, không muốn gần gũi giao thiệp với người xung quanh.

Ngược lại người nào có tâm địa hiền lương, thường nghĩ những điều lành, họ có tâm lý thoải máithư giãn các cơ bắp. Nhờ sự tĩnh lặng thư giãn mà hệ thống tuyến nội tiết thay vì tiết ra những chất nêu trên, lại tiết ra những hormones có lợi cho cơ thể như Acetylcholine, Dopamine, Serotonin, Melatonin, Endorphine, Insuline v.v.. là những chất hoá giải Nore và Epi, có công năng hạ huyết áp, phục hồi ký ức, cảm thấy hưng phấn, thân thể linh hoạt, khinh an, cân bằng đường máu, giảm đau nhức, giúp cho họ cảm thấy phấn chấn, vui vẻ, yêu đời và có thái độ thân thiện với mọi người xung quanh. Gương mặt của họ lúc nào cũng tươi sáng, nhìn vào tự nhiên có cảm tình.

Như thế tâm và tướng có sự liên quan trực tiếp với nhau. Tâm như thế nào sẽ biểu lộ ra cái tướng như thế ấy.

Chữ 'tu' trong nhà Phật

Trong nhà Phật, người ta thường nhắc đến nhóm từ "tu tâm" và "tu tướng". Vậy thế nào là tu tâm và thế nào là tu tướng?

Trước hết chúng ta tìm hiểu động từ "tu". Chữ "tu" bao hàm nhiều nội dung khác nhau. Theo quy ước nhân gian, chúng ta có thể hiểu:

- Khi chúng ta khát nước, chúng ta cầm ly nước lớn, uống một hơi không dừng. Hành động đó gọi là "tu" một hơi hết ly nước, thay vì gọi là "uống" nước.

- Nhà cửa, xe cộ ... hư hao, chúng ta sửa chửa lại, hành động này gọi là "tu sửa" lại căn nhà hay "tu sửa" lại chiếc xe.

- Học bổ túc thêm kiến thức về nghề nghiệp của mình thì gọi là "tu nghiệp"

- Chữ "Tu" dịch qua tiếng Anh, tương đương với từ "practic". Practic có nghĩa là "thực tập" . Như vậy Tu là sự thực tập, làm đi làm lại một phương pháp nào đó. Nó cũng gần giống nghĩa với chữ "Tu"trong đạo Phật.

Chữ "Tu" trong Phật giáo, gốc từ chữ "bhàvanà" có nghĩa là "gieo trồng" để được một cái gì đó. Ở đây chúng ta có thể hiểu rộng thêm một chút "Tu" có nghĩa là tu tập, thực tập, thực hành hay hành trì... một pháp môn nào đó để biến những gì chúng ta học từ lý thuyết trở thành những kinh nghiệm thực tếtrên thân và tâm của chúng ta.

Nói cách khác, "Tu" là một tiến trình thực tập để chuyển đổi lời ăn tiếng nói, nếp suy nghĩ, hành vicủa chúng ta trong những sinh hoạt giao tế hằng ngày trên chính đời sống của chúng ta, quan trọng nhất là những quán tính xấu trở thành những quán tính tốt theo lời Phật dạy.

Tóm lại, "Tu" là cách tiếp thu pháp học và pháp hành phù hợp với căn cơ trình độ để có kết quả tốt trên thân và tâm. Nó đòi hỏi thời gian. Thời gian này có thể xem như thời gian "gieo trồng" để sau này được kết quả tốt vậy.

Tu tướng còn gọi là tu phước 


Tu tướng là gìn giữ hình tướng bên ngoài, tức nhìn chung thân thể phải sạch sẽ, đầu tóc chải gở gọn gàng, y phục trang nghiêm. Tu tướng không có nghĩa là ăn diện quần áo sang trọng, trang sức mắc tiền, trang điểm loè loẹt. Người tu tướng là người sống đạo đức luôn có thái độ tự trọng biết tuân theo các nghi lễ, văn hoá, phong tục, tập quán của cộng đồng, làng nước, xã hội. Họ thường giữ hình tướng bề ngoài luôn trang nghiêm. Chính sự trang nghiêm này khiến cho sự giao tế trong đời sống cộng đồng xã hội được văn minh, lịch sự và nề nếp.

Tu tướng đối với người xuất gia, là phải tuân theo giới luật, giữ gìn oai nghi tế hạnh tức là giữ cái tướng của người tu trong mọi hoàn cảnh qua bốn động tác: đi, đứng, nằm, ngồi. Người đời luôn có cảm tình và kính trọng những vị tu sĩ tuy áo cũ sờn vai nhưng nơi họ toát ra vẻ trang nghiêm của một bậc tu hành giữ giới.

Một người tu sĩ ăn mặc xốc xếch bê bối, hoặc quá loè loẹt lụa là nhiều màu lắm sắc,  khi nói chuyện phùng mang trợn mắt, múa tay rung đùi, hát hò như ca sĩ chuyên nghiệp ngoài đời...khó được sự chấp nhận của mọi người. Do đó tu tướng là điều rất cần thiết cho người tu theo đạo Phật dù tại gia hay xuất gia để tạo tín tâm và gây ấn tượng tốt đẹp cho mọi người xung quanh.

Tu tướng còn có nghĩa là tu tập những việc làm có thể nhìn thấy được qua hình tướng bên ngoài còn gọi là tu phước, chẳng hạn như: đi chùa lễ Phật, quy y Tam Bảo, thọ và giữ giới luật, bái sám, tụng kinh, niệm Phật, toạ thiền, bố thí, cúng dường, đúc chuông, tạo tượng, xây chùa tháp, ấn tống kinh sách, hộ niệm, đóng góp công sức tiền bạc giúp đỡ người nghèo khó, bệnh tật, thiên tai, bão lụt, đào giếng, đắp đường, xây cầu...

Nếu không có phương tiện tiền bạc vật chất, thì bố thí thời giờ, công sức, tham gia thực hiện các công tác thiện nguyện bằng khả năng hay kiến thức chuyên môn như dạy học, xây nhà, dựng lều, phát thuốc, tiêm thuốc, băng bó vết thương, an ủi khuyên lơn xoa dịu nỗi đau đớn của người bệnh.... Làm được một hay nhiều điều trên đây thì đó là tu phước.

Tu phước cần có tinh thần "Bố thí Ba-La-Mật" nghĩa là giúp đỡ bố thí không vì danh lợi, không tính toán, không so đo, cũng không đòi hỏi điều kiện, phe nhóm này, chính trị kia, tôn giáo này, tín ngưỡng nọ. Nếu bố thí mà đặt điều kiện thì việc tu phước mất đi ý nghĩa "phụng sự Tam Bảo" hay "làm việc thiện với tinh thần quên mình vì người".

Theo Hoà thượng Thích Thông Triệt thì "Tu phước là cách ta cụ thể hoá thái độ, cử chỉ, và lời nóicủa ta đối với người hay thú vật với mục đích đem lại niềm an vui hạnh phúc, sự an toàn hay làm vơi đi những nỗi lo âu, sợ hãi, những nỗi đau tâm lý và thân xác cho những đối tượng này." (Trích Bản tin sinh hoạt Thiền Tánh Không tháng 9 -2002, trang 4)

Nói chung, người tu phước là người tự nguyện hy sinh phần vật chất tiền tài của mình để chia sẻ cho người khác với tâm không mong cầu danh lợi cho mình mà chỉ muốn mang lại sự an vui hạnh phúc cho người khác.

Giá trị của tu phước 

Tu phước có hai loại phước báo: Phước hữu lậu và Phước vô lậu.

- Phước hữu lậu là khi mình làm công việc bố thí, cúng dường, góp công góp của xây dựng chùa chiền hay tham gia cứu trợ với tâm mong cầu làm phước nhiều sẽ được hưởng phước báo nhiều trong đời này hay đời sau. Điều này không trái với quy luật Nhân Quả Nghiệp Báo trong đạo Phật. Vì theo quy luật Nhân Quả, mình làm điều gì thì mình sẽ hưởng Quả đó khi hội đủ duyên. Nếu làm việc thiện lành thì sẽ hưởng Quả thiện lành. Nếu làm việc ác thì sớm hoặc muộn gì cũng nhận Quả báo ác, không trốn tránh được.

- Phước vô lậu là làm một trong những việc thiện nêu trên, ngay cả giảng Pháp cũng là một việc thiện vô cùng thù thắng mà ta không màng đến công đức đã làm, không cầu mong sẽ nhận lại những phước báo tốt lành ở đời này hay đời sau.   Sự kiện này trong kinh có nhắc tới qua câu "Tam luân không tịch" nghĩa là không có chủ thể trao truyền Pháp hay vật tặng, không có người nhận, cũng không có lời giảng Pháp hay vật trao truyền. Tất cả chỉ là sự trao truyền thế thôi! Tuy người làm việc thiện không mong muốn được hưởng gì hết về việc làm của mình, nhưng Quả báo thiện lành sẽ tự nhiên xuất hiện với người tu phước vô lậu khi duyên đến.

Trong cuộc sống hằng ngày người tu phước hữu lậu hay vô lậu thường gặp nhiều may mắn trong mọi hoàn cảnh, nhất là về con đường tâm linh sẽ gặp được những thiện tri thức giúp đỡ tiến tu.

Kẻ nào sống ích kỷ, keo kiệt, không biết bố thí, ai khổ ai chết mặc tình, không hề để ý, không quan tâm giúp đỡ, chỉ biết gom lợi về mình. Những người đó xem như là những người thiếu vắng lòng từ thiện. Hễ thiếu lòng từ thiện thì đương nhiên sẽ không hưởng được phước báo. Nếu có chút phước báo nào trong đời này thì phước báo đó đã hưởng hết rồi, nên khi gặp tại nạn thì không còn phước báođể được may mắn thoát khỏi nữa. Cho nên chư tôn đức thường dạy chúng ta phải để dành phước báo bằng cách không nên hưởng hết mà hằng ngày cần phải tô bồi thêm phước báo bằng những việc thiện lành. Ví như tiền gửi trong nhà băng, rút ra xài hết khi cần thì không có tiền để mà tiêu là như thế!

Tóm lại, tu phước được xem như là cách để dành "tài nguyên công đức". Tu phước hữu lậu hay tu phước vô lậu tuỳ quan niệm của mỗi người, tu thế nào cũng được nhưng là người Phật tử, dứt khoát tu phước là điều vô cùng cần thiết.

Tu tâm dưỡng tánh